Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

Bí mật về một lễ hội hành xác.


Bí mật về một lễ hội hành xác.
Từ rất lâu, trong giới pháp sư huyền thuật Việt Nam đã bí mật rỉ tai nhau về một lễ hội hành xác đặc dị ở Việt Nam diễn ra vào giữa tháng Giêng âm lịch nhưng họ luôn giữ bí mật về địa điểm. Họ cho rằng, những ai có "căn, cơ, duyên" mới được biết "thánh địa" diễn ra lễ hội. Những pháp sư huyền thuật có "căn, cơ, duyên" dự lễ hội sẽ có cơ hội nhận được sức mạnh vô hình nhưng rất vô biên. Và hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến, các pháp sư lại lục tục đi tìm, dò hỏi địa điểm bí mật đó để tham dự.

Tình cờ, qua một tài liệu của đại sư H "điện bà" ở Hà Nội, chúng tôi phát hiện ra địa điểm đó ở Tân Châu, An Giang. Thông tin duy nhất chúng tôi có được là: Lễ hội hành xác diễn ra tại một ngôi "Am chư vị Năm Ông" ở ấp Long Thị B. Ngày nay, ấp Long Thị B đã trở thành khóm Long Thị B vì thị trấn Tân Châu đã được nâng cấp thành thị xã.

Đi tìm địa chỉ cuộc hành hương kỳ bí

Tại bến xe Tân Châu, tôi nhờ một người chạy xe ôm chở đi khắp khóm Long Thị B để tìm "nơi diễn ra lễ hội hành xác" suốt gần một buổi sáng nhưng công cốc. Anh xe ôm không biết ngôi "Am thờ chư vị Năm Ông" ở đâu đã đành, những người lớn tuổi ở khóm Long Thị B cũng lắc đầu khi được hỏi thăm.

Một số người lấm lét nhìn quanh rồi bảo: Làm gì có lễ hội mê tín dị đoan đó. Sau này, tôi được biết, tất cả những người được hỏi thăm đều biết rất rõ địa chỉ tâm linh đó nhưng ngại chúng tôi là "lực lượng mật" chuyên "bắt" những người hành nghề mê tín, dị đoan nên không chỉ đường. Họ đã cố bảo vệ niềm tin tâm linh của họ một cách yếu ớt bởi chính quyền địa phương cho phép thực hiện lễ hội nhưng cấm tuyên truyền. Có người đã bị phạt vì quay phim lễ hội hành xác rồi chép ra đĩa để bán. Đó là lý do cơ bản nhất khiến lễ hội độc đáo biến thành "bí mật". Sự "bí mật" đó được một số pháp sư thổi lên thành "huyền bí". Vô tình, chính quyền địa phương biến một lễ hội đặc sắc thành một sản phẩm "vô cùng bí mật".

Sau một buổi sáng thất bại, người chạy xe ôm khuyên tôi nên ghé miếu thờ ông Quan Đế đốt hương khấn vái xin giúp đỡ. Anh ta cho biết, người dân địa phương đều làm như vậy mỗi khi "phần đời" gặp bế tắc. Với anh ta, Quan Công là một vị thánh có khả năng giải quyết tất cả mọi chuyện khó khăn mà người đời bó tay. Lời khuyên thật hiệu nghiệm. Tại đó, không cần vào khấn Quan Công, tôi đã gặp một người trợ lễ tên Kiệt. Anh ta xác nhận: "Anh đã tìm đúng chỗ". Nhờ anh Kiệt, tôi đã gặp gỡ nhiều nhân vật "trong cuộc" và mọi chuyện trở nên sáng tỏ.

Nơi diễn ra lễ hội là một tòa kiến trúc kiểu cổ xưa nhưng mới được xây dựng lại tọa lạc tại khu chợ cũ Tân Châu, ven mép thượng nguồn sông Tiền. Tấm biển hiệu ghi là "Quan Đế miếu".

Anh Kiệt cho biết, ngày xưa ngôi miếu nằm ở sát mé sông, do sạt lở, chính quyền đã cấp nền đất mới để xây ngôi mới.

Tại đây, cứ đến dịp rằm tháng Giêng hàng năm, theo nghi lễ truyền thống có từ hàng thế kỷ trước lưu truyền lại, những người được chọn sẽ tắm dầu đun sôi, dùng que sắt đâm xuyên người, dùng chùy gai tự đánh đập mình đến tóe máu để ban phước cho cộng đồng. Không ai biết nguyên nhân từ đâu, khi nào và vì sao xuất hiện một lễ hội độc đáo như vậy tại địa phương mình.


Quan Đế miếu ở Tân Châu, An Giang - nơi diễn ra lễ hội hành xác hàng năm.

Lễ hội Thaipusam kiểu Việt Nam?

Hàng năm, cứ đến mùa chay tháng Giêng, cả thế giới rùng mình chứng kiến những màn hành xác kinh dị của một số tín đồ dự lễ hội Thaipusam ở một số địa điểm: Động Batu ở Kuala Lumpur (Malaysia), đảo PhuKet (Thái Lan), đền Sri Srinivasa Perumal (Singapore), đền Kochi (Ấn Độ)… Những nơi diễn ra lễ hội này đã thu hút hàng ngàn lượt khách du lịch đến xem và… ngất xỉu. Liệu lễ hội hành xác ở Tân Châu có liên quan đến lễ hội Thaipusam?

Ông Hứa Trí Hùng - Trưởng ban bảo quản, được coi là "chủ chùa" - cho biết: "Chỉ biết người xưa làm sao, bây giờ chúng tôi làm y vậy, chứ chúng tôi không biết xuất phát từ đâu".

Theo thông lệ, ở Tân Châu, lễ hội diễn ra suốt 4 ngày từ 13 đến 16 tháng Giêng âm lịch.

Để chuẩn bị lễ hội, từ ngày mùng 4 tết cổ truyền, ban tế tự thực hiện một nghi lễ gọi là lễ "thỉnh Ông". Sau khi bày hương án, 4 vị chức sắc cao cấp nhất trong ban tế tự làm chủ tế đồng loạt đốt hương khấn thỉnh rồi xin keo. Keo là 2 miếng gỗ hình móng ngựa tượng trưng cho lưỡng nghi âm dương. 4 người chủ tế ném keo xuống nền gạch. Nếu cả 2 miếng keo cùng nằm sấp hoặc cùng nằm ngửa tức "Ông" chưa về. Nếu 1 miếng keo nằm sấp và 1 miếng nằm ngửa là "Ông đã về". Trống mừng được gióng lên dồn dập. Các tổ múa lân đang trong tư thế chuẩn bị nhận được tín hiệu "mừng" bắt đầu múa "nghinh Ông".

Đến ngày 13 vào lễ "đạp đường". Sau khi bày hương án, 4 vị chủ tế quỳ hầu xin keo chờ "Ông khai lễ". Khi nhận được tín hiệu, một vị chủ tế vung dùi đánh 3 hồi trống "lệnh khai hội".

Tiếng trống "lệnh khai hội" vừa dứt, một số người dự lễ hội sẽ rơi vào trạng thái vô thức nhập xác lên đồng. Những người này được gọi là "xác căn". Theo các bô lão địa phương thì "xác căn" là do "Ông" chọn đại trong số những người hành hương dự lễ. Họ là những người lao động bình thường, không liên quan đến pháp sư huyền thuật. Có nghĩa là, họ chưa từng học hành, tu luyện hay nhập môn, bái sư bất cứ loại tà thuật nào. Có người hành nghề bán vé số, có người chạy xe ôm, có người là tiểu thương…

Ông D., 72 tuổi, cư ngụ tại khóm Long Thị C, đã từng được "nhập xác" khẳng định: "Trong thời gian nhập xác, tôi hoàn toàn không hay biết chuyện gì xảy ra đối với mình. Trạng thái như bất tỉnh. Khi tỉnh dậy thì mới biết mình được “Ông” chọn làm “xác căn” qua lời kể những người chứng kiến". Ông D. không theo tôn giáo nào, chưa từng học võ nghệ hay luyện bất kỳ loại bùa chú nào. Ông sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không phải ai cũng thích làm "xác căn".

Ông X. - một chủ lò bánh ở gần miếu đã từng được "Ông" chọn làm "xác căn". Để trốn tránh, cứ đến những ngày diễn ra lễ hội ông X. phải rời khỏi địa phương cho đến khi hết lễ hội mới dám về. Năm 2009, một thiếu niên 15 tuổi cư ngụ ở xã Long Châu, cùng huyện đến xem lễ hội đã bất ngờ được "Ông" chọn làm "xác căn". Đến mùa lễ hội năm sau, gia đình phải đưa cậu ta sang địa phương khác để trốn tránh.

Ông Hai Nhung, 85 tuổi, cư ngụ ở khóm Long Thị B kể, sau khi "nhập xác", các "xác căn" phải bước qua một bãi than cháy rực để vào miếu chầu “Ông". Ai bước qua bãi than bị bỏng sẽ bị cộng đồng tẩy chay ngay vì đó là "xác căn" dỏm.

"Xác căn" vào miếu chầu "Ông" phải xưng danh. Thông thường, "xác căn" xưng danh 5 ông gồm: Đường Công, Bửu Công, Lãng Công, Chí Công và Hóa Công. Quang cảnh xưng danh của 5 ông Công diễn ra rất rùng rợn, kinh dị bởi những pha ra oai mà ai yếu tim sẽ ngất xỉu: Vừa xưng danh vừa đấm vào người thùm thụp hoặc liên tục đâm đầu vô cột miếu đến phun máu; Có ông rút cây đại đao trên bệ thờ nặng gần chục ký múa bài thảo vùn vụt hoặc dùng dao sắc chém vào người bình bịch (nhưng không hề hấn), có người yêu cầu đun sôi dầu để… tắm. Ngoài 5 ông, còn có một số “Ông”, “Bà" lạ như: Bà Cố hỷ, Hỏa Công Thần tướng…

Điều lạ là, có nhiều người dáng vẻ ốm yếu nhưng khi "nhập xác" thì mạnh mẽ phi thường. Ở địa phương, ai cũng từng chứng kiến bà Tư Dề đã 92 tuổi vẫn được "Ông" chọn  xưng danh "Bà Cố hỷ". Ngày thường, bà yếu đến nỗi khi đi phải có con cháu dìu 2 bên. Bà rất thích lễ hội nên năm nào cũng đến để được "Ông" chọn làm "xác căn".

Kết thúc nghi thức xưng danh, các "xác căn" được người dân đưa lên kiệu. Trên kiệu đặt sẵn một chiếc ngai cắm đinh tua tủa (nếu "xác căn" là đàn ông) hoặc cắm những hàng dao bén (nếu "xác căn" là phụ nữ). Kiệu được người dân xúm nhau công kênh đi diễu hành khắp các đường phố. Trên chiếc ngai kiệu, "xác căn" vừa ngồi nhún nhảy trên hàng chông hoặc dao vừa dùng thanh sắc nhọn xiên quai (đâm xuyên qua cổ họng, môi, gò má), dùng kiếm tự cắt lưỡi hoặc dùng chùy gai sắt tự đánh vào lưng mình. Tất cả những hành động hành xác trên phố đều phun máu.

Để đón phước, mỗi gia đình bày hương án trước hiên nhà, trên đó có bày sẵn tờ giấy để nhận máu của "xác căn". "Xác căn" sẽ đi từng nhà thấm máu của mình vào tờ giấy. Người dân địa phương cho rằng "xác căn" hành hạ mình để dùng máu chuộc lỗi với cõi trên.

Ngai kiệu công kênh "xác căn" đi ban máu từng nhà dài đến một ngôi am thờ ở rải rác trong khu dân cư. Am là một gian thờ trong một ngôi nhà dân.

Suốt 2 ngày 14 và rằm tháng Giêng, các "xác căn" và dân địa phương quây quần tại am. Ai có bệnh, có chuyện buồn đều đến nhờ "căn" giải trừ.


Ông Hai Nhung, người thủ từ am Đường Công.

Am thờ ngũ vị công

Ngày xưa, ở vùng này chỉ có 5 cái am thờ 5 ông Công. Nhưng ngày nay, vì nhiều lý do, người ta chỉ còn biết 2 cái am. Am thờ Đường Công ở số 127/1, đường Nguyễn Công Nhàn, khóm Long Thị B đặt tại nhà cụ Hai Nhung, 85 tuổi.

Cụ Hai Nhung là người kế vị thủ từ ngôi am này từ đời ông nội truyền xuống. Cụ không rõ ngôi am này có từ lúc nào và cũng không hiểu vì sao mình lại thờ "nhất vị" Đường Công. Tuy giữ am nhưng cụ và con cháu trong nhà chưa từng được "Ông" chọn là "xác căn". Mỗi năm đến lễ, các "xác căn" từ nơi khác đến "trấn ngự" ông phải đứng ra chăm sóc và tổ chức tế lễ. Những người dân cùng xóm cũng góp tiền của để ông thực hiện tế lễ. Đến kỳ lễ hội, ngoài "xác căn" Đường Công còn có một số "xác căn" xưng danh khác cùng đến đây dự tiệc.

Am thứ hai thờ Bửu Công ở một địa chỉ gần ngôi chùa Gò Mối thuộc khóm Long Thạnh B. Còn 3 ngôi am thờ Lãng Công, Chí Công và Hỏa Công không ai biết ở đâu.


Một "xác căn" đang vào lễ hành xác (ảnh tư liệu gia đình chú Hai Chương).

Ngoài 5 ngôi am thờ ngũ vị Công, tại địa phương còn có hàng chục ngôi khác thờ "Bà Cố hỷ", Hỏa Công Thần tướng….

Sau 2 ngày tế lễ tại các am, sáng ngày 16, các "xác căn" được dân đưa ngai kiệu trở về Quan Đế miếu để làm lễ "tống tàu". Những chiếc tàu mô hình được dân địa phương chung tay kết thủ công dài khoảng 5 mét. Trên đó, người ta chất đầy đầu heo, bánh trái, gạo, muối. Lễ "tống tàu" được giải thích là "tống tiễn điều xấu xa ra khỏi địa bàn". Những "xác căn" có nhiệm vụ nhảy xuống sông đẩy "tàu" ra xa bờ, càng xa càng tốt.

Nếu so với lễ hội Thaipusam và cách hành lễ hành xác trong lễ hội "cúng Ông" ở Tân Châu có nhiều điểm tương đồng, kể cả việc xuất hiện 5 vị thánh nhập xác. Nói cách khác, lễ hội hành xác ở Tân Châu chính là lễ hội Thaipusam diễn ra hàng năm ở các nước. Điều khác biệt tìm thấy trong lễ hội tại Tân Châu là nhân vật Quan Đế, tức Vân Trường - Quan Công xuất hiện "chỉ huy" tất cả các vị thần "nhập xác" và 5 vị Công thánh. Ngoài ra, tuy lễ hội ở Tân Châu và các nước diễn ra cùng tháng Giêng nhưng khác nhau ngày khởi hội.

5 vị Công thánh ở lễ hội hành xác tại Tân Châu chính là 5 vị Phật Xiêm - Một tín ngưỡng dị biệt xuất hiện ở Thái Lan cùng thời điểm với đức Phật Thích Ca.

Trong thời gian tìm hiểu, người viết đã phát hiện phong trào yêu nước kháng Pháp từ thế kỷ XIX đã "dẫn lối" cho lễ hội Thaipusam du nhập vào Việt Nam. Khi vào đến Việt Nam, lễ hội đã biến thể chút ít và xuất hiện thêm Quan Công và một số vị thần khác.

Với người dân Tân Châu, lễ hội hành xác còn quan trọng hơn tết cổ truyền. Thiết nghĩ, chính quyền địa phương cần tổ chức mời các nhà khoa học về xã hội, văn hóa nghiên cứu nghiêm túc lễ hội độc đáo này. Bởi đó không chỉ là một nét văn hóa tín ngưỡng truyền thống mà còn là chỉ dấu của lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước trước thế lực ngoại xâm của tiền nhân
  Nông Huyền Sơn (nonghuyenson@gmail.com)  - Nguồn : http://antg.cand.com.vn/vi-VN/phongsu/2013/3/80307.cand.

Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

HUYỀN BÍ TÀ LƠN ( BOKOR).BÀI 2.

HUYỀN BÍ TÀ LƠN ( BOKOR ).
Giới thiệu : Trong bài 1 ( 
http://dienbatn0904392219.multiply.com/journal/item/276)
, dienbatn đã giới thiêu đôi chút về sự huyền bí của dãy núi Tà Lơn ( Bokor ) của Căm Pu Chia. nay nhân đọc ANTG, có bài viết của Nông Huyền Sơn khá hay, dienbatn xin giới thiệu với các bạn để có một cái nhìn tổng quát hơn về vùng Thánh địa này.
BÀI 1 : Thám hiểm thánh địa pháp sư Đông Nam Á.
Từ xưa, cái tên Tà Lơn trở thành một "thương hiệu uy thế" đối với những người tín ngưỡng huyền thuật ở khu vực Đông Nam Á. Họ tin rằng, những pháp sư có quá trình tu luyện tại núi Tà Lơn mới tài giỏi thật sự. Vì vậy, sau một thời gian dài học pháp thuật nhuần nhuyễn tại quê nhà, những đồ đệ huyền thuật ở các nước này đều khăn gói đổ về núi Tà Lơn, chui vào hang sâu giữa rừng thẳm để… tốt nghiệp cấp đại sư. Không ít người đã bỏ mạng trong quá trình tu luyện tại đây rồi được giới huyền thuật phong "thánh".
PV Chuyên đề ANTG đã "phượt" đến tận đỉnh núi này để tìm hiểu sự thật.


KỲ I: XÂM NHẬP ĐỈNH LỤC SƠN LINH THIÊNG
Điềm chỉ của một pháp sư Việt
Trước khi sang đất bạn thám hiểm thánh địa Tà Lơn, tôi ghé thăm một ông bạn già tên Chín, cư ngụ ở Tri Tôn, An Giang. Trong giới huyền thuật ở miền Tây Nam Bộ, ông Chín được nhiều nhiều người biết tiếng vì ông đã từng sang Tà lơn luyện phép. Ông Chín cũng rất nổi tiếng ở địa phương vì hàng chục lần bị kiểm điểm tội truyền bá mê tín dị đoan. Với ông, phép thuật không thuộc loại "mê tín dị đoan" mà là một "nét văn hóa tâm linh của người xưa truyền lại". Do mải mê luyện bùa, ngải, phép thuật từ nhỏ nên ông không được đến trường học văn hóa. Tất nhiên, ông mù chữ loại nặng.
Dù mù tất cả các loại chữ viết chính thống trên thế giới nhưng ông lại rất rành các loại chữ bùa, từ chữ bùa Pàli đến chữ bùa Phạn, bùa Lèo, bùa Năm Ông, bùa Lục Sơn (chữ Kh'mer cổ)… Ông đã từng hội ngộ với rất nhiều đại pháp sư khu vực Đông Nam Á tại đỉnh núi Tà Lơn. Những lần hội ngộ như vậy, ông và các đại pháp sư khác quốc tịch, dị biệt ngôn ngữ phải nói chuyện với nhau bằng "tiếng bùa" và "bắt ấn quyết" (tức ra dấu).
Trình độ văn hóa của ông Chín là con số không nhưng trình độ về bùa, chú, ngải thì thuộc đẳng cấp "đại sư". Ông Chín khẳng  định, ai cũng biết đường lên đỉnh Tà Lơn nhưng đường đến nơi tu luyện của các pháp sư thì chỉ có giới pháp sư thuộc đẳng cấp trung sư mới có quyền biết. Đó là những địa điểm bí ẩn chưa có trên bản đồ. Ông từ chối tháp tùng, mặc dù tôi đề nghị một cái giá bồi dưỡng khá cao.  Không chịu đựng nổi sự nài nỉ quyết tâm của tôi, ông đành vẽ một bản sơ đồ kèm lời khuyên: "Chú cứ chạy xe gắn máy qua bển. Đường xe hơi rộng mênh mông nhưng giá thuê rất mắc. Với xe gắn máy, chú có thể luồn lách nhiều chỗ và chủ động thời gian đi".
Tôi quyết định mang xe gắn máy sang đất bạn đề chinh phục đỉnh Tà Lơn.
Ông Chín diễn giải, theo tiếng Kh'mer thì "Tà Lơn" có nghĩa là "Ông thần lớn", tức là vua của các vị thần linh. Đối chiếu với văn hóa tâm linh Việt và tiếng Việt thì "tà" không có nghĩa tương xứng. Một số người cho rằng dịch nghĩa "tà" sang tiếng Việt là "thần hoàng bổn cảnh". Tuy nhiên đối chiếu theo văn hóa tín ngưỡng thì điều này sai biệt rất xa. Với người Kh'mer, ông "Tà" là một pháp sư tài giỏi nhất khu vực. Ông Tà dùng huyền thuật trừng trị bất kỳ ai dám chống lại ông, kể cả dân làng. Nếu ai tuân phục ông Tà sẽ được huyền thuật của ông ta bảo vệ. Ông Tà rất nóng tính và hung dữ.
Còn "thần hoàng bổn cảnh" của người Kh'mer luôn luôn là phụ nữ. Theo truyền thuyết Kh'mer, dãy núi Lục Sơn Tà Lơn do một vị thánh nữ được gọi là Veang Kh'mau "cai quản". Người dân Kh'mer sinh sống dưới chân núi Tà Lơn cho rằng, chủ của đất đai vùng này là hoàng tộc Monivong (quốc vương Campuchia) nhưng khai khẩn vùng này là do một người phụ nữ Việt tên Nàng Mau. Ngày xưa, người dân vùng này chỉ biết hái lượm. Nhờ Nàng Mau dạy trồng lúa nước nên người dân không còn đói kém nữa. Và họ đã tôn người phụ nữ này làm vị thánh đại diện cho lòng nhân ái. Người ta đã xây một bức tượng Veang Kh'mau cao khoảng 20 mét đặt trên đỉnh Bokor. 


Ẩn dưới bãi đá là hàng ngàn hang động.
Tiểu sử “thành phố ma”
Dãy núi Tà Lơn gồm 6 ngọn và ngọn chính có cái tên là Phnom Bokor, có nghĩa "Núi voi". Từ năm 2005, Chính phủ Campuchia đã quy hoạch Pokor - một trong 6 ngọn vùng núi hoang sơ này thành khu du lịch: Đền thờ Monivong - Công viên quốc gia Bokor. Đến đầu năm 2011, khu du lịch này mới hoàn tất cơ bản và đưa vào khai thác du lịch tâm linh. Vì thế, muốn vào núi phải mua vé. Giá vé vào "cổng trời" chỉ 2.000 real, tương đương 6.000 VNĐ.
Đường từ chân lên đỉnh núi dài 33 km được tráng nhựa rất phẳng, đẹp và hiện đại. Đó là con đường độc đạo lên núi. Những cung đường ưỡn ẹo trên những con đèo sâu hun hút và nhiệt độ khoảng 20oC khiến tôi có cảm giác như mình đang chạy xe trên đoạn đèo Đà Lạt.
Năm 1890, thực dân Pháp truy lùng một số người Việt Nam ẩn cư giữa rừng sâu trên đỉnh núi. Khi đó, họ phát hiện khí hậu vùng hoang sơ này rất lý tưởng cho việc nghỉ mát. Đến năm 1921, sau 9 tháng xây dựng, Pháp biến vùng rừng hoang thành một thị trấn trên núi mang tên tiếng Anh là Bokor Hill gồm: Nhà thờ Thiên Chúa giáo, bưu điện, bệnh viện, khách sạn. Các pháp sư bị nhà cầm quyền cầm tù. Những cái am, những hang động tu luyện của các pháp sư  đều bị bỏ hoang phế. Một số pháp sư chạy sâu vào rừng tìm những hang động vắng tiếp tục tu luyện.
Đến năm 1940, thất trận trước quân đội Nhật hoàng, thực dân Pháp co cụm về Phnôm Pênh, bỏ hoang thị trấn Bokor Hill. Sau năm 1945, khi Campuchia độc lập, nhà vua Shihanuk (cha) đã cho xây một cung điện nghỉ dưỡng ở đây và tái sử dụng các công trình của Pháp. Nhưng đến thời Kh'mer Đỏ diệt chủng, toàn bộ thị trấn nhỏ này bị phá hoang tàn. Khi Campuchia được giải phóng khỏi nạn diệt chủng của Pôn Pốt, người ta đã bỏ quên vùng núi hoang vắng này một thời gian dài. Suốt thời gian đó, chỉ có các pháp sư và tín đồ của họ thỉnh thoảng đi lên núi theo những con đường mòn hiểm trở để cúng bái và truyền phép thuật.
Bất ngờ năm 2001, đạo diễn Hollywood Matt Dillon nghe câu chuyện về Bokor bởi một đạo sĩ người Myanmar đã từng tu luyện nơi đây. Năm 2002, Matt Dillon cùng đoàn phim của ông đến tận Bokor thực hiện bộ phim City of Ghost.
Bộ phim nổi tiếng đến nỗi, từ năm 2003, dân Tây du lịch đến Campuchia đều đòi đến thăm "thành phố ma". Rừng thẳm, non cao của Bokor bị  đánh thức.
Hiện giờ, trên đỉnh Bokor, cung điện Hoàng gia đã được xây dựng lại thành Bokor casino và một cụm phức hợp khách sạn casino Thansur Bokor Highland phục vụ du khách ngoại quốc hoạt động ngày đêm.
Các điểm am, miếu tu luyện của pháp sư thời xa xưa trở thành một quần thể du lịch tâm linh không thể thiếu của Bokor.
Tuy nhiên, theo thông lệ hàng năm, các pháp sư Đông Nam Á vẫn tìm về Bokor đi sâu hơn vào rừng, tìm những hang động hoang sơ để thu nạp tinh - khí - thần của vùng thánh địa.


Một bát hương dành cho người "đắc đạo".
Huyền thoại những hang động vô danh
Bỏ qua quần thể casino hiện đại tấp nập người xe tôi tiếp tục tiến cao hơn về đỉnh núi, tại một ngã rẽ, có tấm biển hướng dẫn đến ngôi chùa Wat Sampov Pram mà giới pháp sư Việt gọi là chùa Năm Thuyền hoặc Nam Thiên. Đó chính là nơi "đắc đạo" của nhiều giáo chủ tôn giáo xuất xứ từ miền Nam Việt Nam và cũng là nơi luyện phép thần thông của các pháp sư vùng Đông Nam Á.
Trong các thư tịch, di ngôn, di tự của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; Bổn Sư Núi Tượng Ngô Tư Lợi - Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Phật Trùm, Phật sống Cử Đa, Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Phật sống Trúc Lâm Nương, Trịnh Công Hương v.v… cho thấy các vị này đều đạt chánh quả, đắc đạo ở ngôi chùa Năm Thuyền này.
Những pháp sư nổi tiếng trước năm 1960 ở miền Nam như Thợ Đức Lỗ Ban; Ông Ba "bùa gồng"; tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan Xích Long và rất nhiều vị đại pháp sư khác cũng đã từng sang khu vực Năm Thuyền luyện phép.
Theo các tài liệu của các pháp sư Việt thì đó là một ngôi am nhỏ do Vua Monivong xây cất vào năm 1924 cho Hoàng tử Pre Thoong đến tu luyện. Pre Thoong được một đại pháp sư người Việt có tên thường gọi là Ba Gang hướng dẫn vào đây luyện phép tiên. Do nơi đây có 5 tảng đá hình chiếc thuyền nên được gọi là Năm Thuyền. Ông Ba Gang và Cử Đa là hai phó tướng của Quản cơ Trần Văn Thành - người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa trong giai đoạn chống thực dân Pháp  (1867 -1868). Sau khi kháng địa bị thất thủ, Quản cơ Trần Văn Thành tử trận, Cử Đa và Ba Gang về núi Tà Lơn tu luyện phép thuật chờ thời cơ. Lần lượt họ viên tịch tại nơi này và được dân địa phương đúc tượng phong thánh.
Ngày nay, Năm Thuyền không còn là ngôi chùa hoang vắng, u tịch. Nhà đầu tư đã xóa hầu hết dấu tích người Việt và "cải biên" thành một khu du lịch tấp nập người. Họ đã biến tượng Cử Đa và tượng Ba Gang thành "Phật Kh'mer". Ông "lục cả" trụ trì ngôi chùa là người Việt Nam cũng không còn.
Lần theo sơ đồ ông Chín "thầy pháp", tôi rời chùa Năm Thuyền, tiếp tục đi sâu xuống vực núi để đến một nơi đặc biệt. Đó là nơi có nhiều hang động huyền bí dành cho những pháp sư "thi tốt nghiệp cấp đại sư".
Vượt qua con suối, trước mặt tôi hiện ra một bãi đá rộng đến hút tầm mắt. Bãi đá mang nhiều hình thù quái dị chen lẫn với những loài cây cỏ dại. Hàng ngàn khối đá đa hình thù xếp chồng lên nhau tạo thành những cái am thiên nhiên lý tưởng và yên tịnh.
Dù đang giữa trưa, mặt trời đứng bóng nhưng ánh nắng rất dịu mát. Thỉnh thoảng, một làn mây xám bao phủ khiến cảnh vật trời đất trở nên âm u huyền bí. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào cảnh thượng giới. Tôi đi sâu vào bãi đá khoảng 1.000 mét. Ẩn dưới những khối đá, hàng hàng lớp lớp hang động sâu hút. Rất nhiều hang có dấu tích con người. Trước cửa một số hang ai đó đã đặt một bát nhang. Ông Chín "thầy pháp" đã từng kể cho tôi nghe chuyện một số pháp sư đến đây luyện phép và chết luôn trong hang. Với trường hợp như vậy, các pháp sư cho rằng, người chết đã đạt chánh quả và được phong thánh. Tuy nhiên, do không để lại tên tuổi nên các pháp sư đến sau gọi chung những "vị thánh" này theo tiếng Kh'mer là "tà phnum", có nghĩa là thần núi.
Lấy can đảm, tôi thử chui xuống một hang có bát nhang. Cửa hang hẹp vừa vặn thân người nên bên dưới hang tối đen như mực. Chân tôi chạm một phiến đá phẳng khoảng 1m2. Qua ánh đèn pin, tôi thấy trên phiến đá vẫn còn sót lại vài mẩu ngải khô, vài mẫu vải mục đã biến màu. Bên cạnh phiến đá còn có một khe đá sâu hun hút. Không mang theo dụng cụ leo núi, tôi đành bỏ cuộc rời khỏi hang.
Tình cờ khi trở về chùa Năm Thuyền, tôi gặp được một người đàn ông.
Ông tên Vang, 46 tuổi, cư ngụ tại phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, thuộc phái Trà Kha. Ông Vang vừa hoàn tất ngày luyện phép thứ 49 dưới một hang nơi bãi đá. Ông vui vẻ cho biết, nếu tôi đến đây sớm trước một tháng sẽ gặp ít nhất 20 pháp sư như ông ta. Giờ họ đã rời núi, chỉ còn mỗi mình ông ở lại cúng bái tạ ơn các "lục tà" ở chùa Năm Thuyền.

BÀI 2 : Hội luyện phép và 36 ngôi mộ người Việt trên đỉnh Tà Lơn .

Ngoài dấu tích chùa Năm Thuyền, tại đỉnh Bokor còn rất nhiều địa chỉ mang tên thuần Việt như điện Minh Châu, điện Bình Thiên, điện Bàn Ngự, điện Tứ Giao… Đó là dấu tích của những người Việt xưa tu luyện phép thuật nơi này. Ngày nay, những cái tên đó đều được người bản địa "Kh'mer hóa" thành Mik Clau (Minh Châu), Bin Thi (Bình Thiên).
Cho đến tận bây giờ, người Kh'mer vẫn tin rằng, những "lục tà" người Việt có công khai mở thánh địa phép thuật vẫn còn "trụ trì trong không gian". Còn các pháp sư khu vực Đông Nam Á vẫn chọn nơi đây làm "trường thi tốt nghiệp" hàng năm.


Tượng đại sư Ba Gang nằm trong cụm du lịch đã bị Kh'mer hóa.
Lễ hội luyện phép vặt sa.
Nhận ra tôi là đồng hương, lại có "tín vật" đồng môn, ông Vang vui vẻ bắt chuyện. Ông Vang đưa tôi trở lại "kham maya kul" tức quần thể hang động luyện phép thuật. Chúng tôi vạch lá, len khe đá để đi mất nửa giờ đồng hồ mới đến nơi.
Trên đường đi, Vang "khai ngộ" cho tôi. Vang nói: "Khi Nam Tông Phật giáo đồ kết thúc mùa kiết hạ vào ngày rằm tháng 9 thì giới pháp sư bắt đầu vào mùa vặt sa. Vặt sa gần giống với nghĩa kiết hạ của Phật giáo. Vặt sa kéo dài 45 ngày kể từ rằm tháng 9 âm lịch đến kết thúc tháng 10 âm lịch hàng năm. Từ ngày đầu tiên của tháng 10 âm lịch là vào lễ vai xu pa na di ka, mà một số người gọi tắt là vai xu. Ông biết tại sao pháp sư chọn kết thúc mùa kiết hạ mới vào mùa vặt sa không? Bởi thời điểm đó, các hồn ma âm binh vừa được thấm nhuần đường tu. Tranh thủ lúc đó, mình lôi kéo họ về phủ phục dưới trướng mình".
Vang dẫn tôi qua khỏi khu vực hang mà tôi từng biết rồi tiến thật sâu vào "kham maya kul",  đến tận mép một thung lũng sâu hun hút. Xuống đến lưng chừng thung lũng, trước mặt tôi là một quần thể hang động đầy vết tích con người: Chân nhang, tàn thuốc lá, chai nhựa, giấy vàng mã, tiền âm phủ vương vãi khắp nơi giống như vừa trải qua một đám tang tập thể. Vang giải thích: "Bãi kham bên ngoài dành cho những pháp sư mới đến luyện phép lần đầu. Ở đây chỉ có những pháp sư cao tay ấn luyện. Yếu nghề lò mò vào đây mà không có sư phụ đi kèm, ngồi 1 giờ là hồn xiêu phách lạc, bỏ chạy ngay. Đã từng có người chịu không nổi âm khí bị điên luôn".
Tôi vờ tin những lời Vang nói. Từ một cửa hang nhìn ra ngoài, kẻ không tin tâm linh cũng sởn gai ốc chứ đừng nói đến những người tín ngưỡng tà thuật. Vực thẳm sâu hun hút, vách núi dựng đứng, Thỉnh thoảng mây từ dưới thấp dâng lên bao trùm khiến không gian tối sầm. Gió len vào khe đá tạo thành âm thanh như ma rên, quỉ khóc… Nếu tịnh tâm không tốt, không điên mới là lạ.
Có lẽ e ngại tôi bị quỷ nhập, Vang xòe hai bàn tay ra trước mặt rồi cong ngón cái và ngón giữa lại như sắp búng lỗ mũi ai đó trong khoảng không, miệng hô chú thật lớn. Âm thanh vọng xuống thung lũng dội lên như phát ra từ cõi vô hình: "An xáng bang da màm a căm căm ú bà da da ba xa to bà ti ka rit xà mì..ì..ì". Sau này, tôi mở băng ghi âm nhờ một nhà sư Kh'mer trụ trì chùa Ph'nom Phi ở Tri Tôn (An Giang) dịch dùm: "Hỡi những thần linh, chánh thần, tà thần. Nếu nghi ngờ điều gì thì mong các ngài chỉ bảo".
Vang cho biết, đây là lần thứ 5 ông tham dự hội vặt sa ở đỉnh núi thiêng này. Nhiều người cho rằng, hội vặt sa Tà Lơn là một cuộc thi đấu tay đôi phép thuật của những pháp sư. Vang chưa từng biết những cuộc đấu đó nhưng vẫn khẳng định: Không thể có. Đã thi đấu tranh tài cao thấp thì không nhất thiết phải đến đỉnh Tà Lơn này. Đã đến đây, hận thù trần gian phải được rũ bỏ.


Một cửa "kham".
Đối với giới pháp sư, ngoài chuyện Tà Lơn là nơi có dấu tích những bậc Phật, thánh đạt chánh quả, còn có yếu tố "chính huyệt" của khu vực Đông Nam Á. Họ cho rằng, nơi đây là điểm tập trung linh khí trời đất nên con người dễ hấp thu đầy đủ tinh, khí, thần của vũ trụ. Vì những yếu tố đó, các sư phụ luôn đưa đệ tử lên đây để kiểm tra khả năng tu luyện. Nếu vượt qua được kỳ vặt sa, kể như đạt cấp đại sư, đủ trình độ làm thầy. Với những người đạt bậc đại sư cũng đến đây để tôi luyện một món "đồ" (Bảo bối có ẩn chứa phép thuật) hoặc nâng cấp một tuyệt kỹ phép thuật nào đó.
Thông thường, những người dự hội mời một vị cao tăng Campuchia (nước chủ nhà) đứng ra chủ trì "trường thi". Trước khi vào hội, các pháp sư tự chọn và đánh dấu một cái hang rồi mời vị cao tăng chủ trì đi từng hàng làm phép trấn ếm. Sau khi trấn ếm xong các hang, vị cao tăng này phối hợp cùng các sư phụ cộng lực, đồng loạt bày trận địa phù phép, "giăng lưới" khắp bầu trời để truy tìm những ác quỷ, yêu tinh ẩn nấp, "trói" lại nhốt chung vào một cái chum sành có nắp. Vị chủ trì sẽ đem cái chum đó về chùa của mình làm "chiến lợi phẩm". Đám ác quỷ, yêu tinh sẽ được vị cao tăng đó trì chú đến khi thuần phục mới được thả ra làm ôsin "phần âm" cho chùa.
Khi đã trấn ếm an toàn, các sư phụ lùa đệ tử vào từng hang bắt đầu tu luyện. Mỗi đệ tử chỉ được phép mang theo 1 lít nước và một số củ ngải làm thực phẩm. Trong thời gian 45 ngày, nếu bước ra khỏi động, xem như bỏ cuộc thi và bị đánh rớt. Người nào vượt qua được, xem như "tốt nghiệp". Người nào hóa điên được cao tăng chủ trì rước về chùa nuôi suốt đời để trục vong. Họ cho rằng, người yếu tay ấn sẽ bị ác quỷ, yêu tinh nhập vào người khiến điên loạn. Người nào chết luôn trong động, xem như đã đạt cực đỉnh thông tuệ. Cả hội xúm lại trì chú tôn người chết làm thánh, thần.
Trong 5 lần tham dự "đại hội", Vang từng chứng kiến 2 trường hợp "hóa thánh" và 3 trường hợp hóa điên. Trong đó có 1 người Thái Lan chết và 2 người Kh'mer hóa điên. Số còn lại thuộc về người Việt Nam.
Kết thúc hội vặt sa, người nào "tốt nghiệp" sẽ được cao tăng chủ trì trao một "ấn vật" và một giấy chứng nhận có con dấu của Tổng hội Phật giáo Vương quốc Campuchia. Với giấy chứng nhận đó, pháp sư sẽ trở thành thượng khách của bất kỳ ngôi chùa nào trên đất Thái Lan, Myanmar, Campuchia,… trừ Việt Nam và Lào.
Chiều cùng ngày, Vang đưa tôi đi thăm một quần thể 36 mộ người Việt đã "hóa thánh" tại đỉnh núi linh thiêng này.
36 ngôi mộ bí ẩn.
36 ngôi mộ nằm thành 3 cụm riêng biệt nhưng gần nhau. Cụm trong cùng nằm lưng chừng thung lũng có 4 ngôi mộ nằm thành 2 lớp. Lớp trong, sát vách đá có 1 ngôi mộ, phía ngoài là 3 ngôi mộ. Cách đó không xa là một cửa động, trên vách đá có chạm một hàng chữ Hán "Động Kim Quang". 
Ông Vang cho biết, những người theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An Giang đều khẳng định đó là mộ Vua… Hàm Nghi và 3 tướng cận vệ. Họ truyền miệng nhau rằng, khi Pháp xâm lược Việt Nam, Vua Hàm Nghi thật không bị Pháp bắt đày đi Algerie. Người bị bắt là một Hàm Nghi giả. Vua Hàm Nghi thật đã lẩn trốn về vùng Thất Sơn (An Giang) gặp Cử Đa. Ông Cử Đa đã đưa Vua Hàm Nghi sang Tà Lơn ẩn trú và chết tại đây. Tại ngôi chùa Phi Lai - Là nơi khai mở đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa - các tín đồ dành hẳn một bàn thờ trang trọng có đặt di ảnh Vua Hàm Nghi. Họ không căn cứ vào bất kỳ tài liệu lịch sử nào mà chỉ dựa vào lời tiên tri qua thơ của Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi, Cử Đa và những… giấc mơ.
Ông Vang khẳng định: "Điều đó trái với lịch sử nên tôi không tin. Tôi nghĩ rằng, đó là ngôi mộ của những thành viên hội kín Phan Xích Long". Những điều ông Vang khẳng định có vẻ khả tín hơn.
Căn cứ vào sử liệu, năm 1912, Phan Xích Long (tức Phan Phát Sanh) tự xưng là Đông cung Thái tử, con trai Vua Hàm Nghi. Ông tự tôn mình làm "hoàng đế", khởi nghiệp kháng Pháp bằng cách lập hội kín. Trước đó, Phan Xích Long đã từng sang Tà Lơn luyện bùa phép. Những pháp sư Kh'mer gọi động Kim Quang là "khăm Lơn", gọi núi Bokor là "Tà Lơn", tức ông Tà Thần tên Lơn. Có thể họ đã gọi tên ngọn núi theo tên "Long" thành "Lơn".

Đường xuống "Kham maya kul".
Phan Xích Long đã dùng tín ngưỡng và bùa chú để thu hút thành viên hội kín (Theo tập 2, sách “Đại cương Lịch sử Việt Nam”). Một trong những phó tướng của Phan Xích Long có người tên Nguyễn Hữu Trí (quê Cần Giuộc, Long An bây giờ) đã lấy Tà Lơn làm đại bản doanh chỉ huy hội viên gài bom, tấn công chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của Pháp tại Sài Gòn, Chợ Lớn vào đêm 23, rạng sáng 24/3/1913. Pháp phát hiện và truy lùng. Kế hoạch tấn công bị bại lộ, Phan Xích Long, Nguyễn Hữu Trí cùng các hội viên đào tẩu. 
Nguyễn Hữu Trí chạy thoát. Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết và bị bắt ở đó. Pháp đem Phan Xích Long về giam ở Khám lớn Sài Gòn cùng với 57 hội viên.
Năm 1916, nhân Pháp bại trận trong Thế chiến I, khoảng 300 hội viên của các hội kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Cần Đước... cùng bí mật phá tù cứu Phan Xích Long. Nguyễn Hữu Trí chọn núi Cấm làm bản doanh bàn kế hoạch giải cứu "hoàng đế". Đêm 14 rạng ngày 15/2/1916, với khẩu hiệu "Cứu Đại ca" (tức Phan Xích Long), Nguyễn Hữu Trí chỉ huy hàng trăm hội viên ẩn mình trong những chiếc tàu buôn đậu trên sông cầu Ông Lãnh đồng loạt tấn công dinh Thống đốc và Khám Lớn. Họ đeo bùa chú, tay cầm binh khí thô sơ chia làm ba nhóm xông lên. Cuộc giải cứu thất bại, Nguyễn Hữu Trí tử trận. Một số hội viên kịp cướp xác Nguyễn Hữu Trí đào thoát.
Ngày 22/2/1916, thủ lĩnh Phan Xích Long cùng một số nghĩa sĩ bị Pháp tử hình tại Đồng Tập Trận. Sau đó, các đệ tử của ông bí mật đào mộ cướp xác đưa đi mất.
Họ đã đem thi thể Phan Xích Long và Nguyễn Hữu Trí sang núi Tà Lơn an táng tại động Kim Quang. Tướng cướp Đơn Hùng Tín một thời ngang dọc khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thời kháng Pháp là một trong những đệ tử thân tín của Phan Xích Long.
Chúng tôi tiếp tục khám phá những ngôi mộ còn lại. Hai cụm mộ còn lại gồm 32 cái nằm rải rác bên ngoài. Những ngôi mộ này là của những người thế hệ sau Phan Xích Long đến đây tu luyện rồi "hóa thánh".
Tất cả các ngôi mộ đều phủ những phiến đá đánh dấu. Có một ngôi mộ chất đá rất sơ sài không bia mộ. Ông Vang cho biết, vào khoảng năm 1970, những người luyện phép đến đây đã phát hiện một bộ xương khô vẫn còn ngồi trong tư thế thiền. Họ để nguyên tư thế của người chết rồi phủ đá lên.
 Trong số 36 ngôi mộ chỉ có một vài ngôi được dựng bia khắc chữ. Có lẽ đó là mộ của những người giữ miếu, giữ am nên người ta biết rõ danh tính. Một ngôi mộ có đề bia: "Năm 1942 phựng ưu bà di Nguyễn Thị Quan, pháp danh Như Cẩm Nhứt, Vị giác linh. Hạn: Nhâm Ngọ Niên, cửu nguyệt, nhị thập nhất". Số còn lại, chết trong các hang đá, không danh tính nên những người đến sau chôn cất phủ đá đánh dấu.
Ở một số hang đá dưới sâu tận cùng đáy vực vẫn còn chứa một số xương cốt người tu luyện chết rũ không được chôn cất, không được nhang khói. Để leo đến đó phải mất hơn 20 giờ đồng hồ. Thời gian không cho phép tôi tiếp tục thám hiểm.
Điều ông Vang băn khoăn là, khu du lịch Bokor đang tiếp tục thi công mở rộng nhiều hạng mục. Một số di tích người Việt xưa rơi vào khu quy hoạch, đã bị Kh'mer hóa. Những quần thể mộ người Việt, những quần thể "khăm" có thể bị khu du lịch san phẳng, trong đó có những ngôi mộ của nghĩa quân Phan Xích Long. Nếu các nhà khoa học lịch sử không kịp thời nghiên cứu, những di tích đó sẽ biến mất vĩnh viễn, một góc nhỏ lịch sử dân tộc Việt sẽ mai một 
  Nông Huyền Sơn ( ANTG ).
MỘT SỐ HÌNH ẢNH ACE ĐẠO TRÀNG DPLHVV TẠI BOKOK.











Một số kỷ niệm của dienbatn với Phật sống Trúc Lâm Nương , người từng tu luyện đắc Đạo tại BoKor.




Một vài trang trong 2 tập tiên tri của sư bà Trúc Lâm Nương.








Thân ái. dienbatn.

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

TỔNG KẾT CHUYẾN TỪ THIỆN TRƯỜNG TIỂU HỌC TÀ HỘC - MAI SƠN - SƠN LA.

TỔNG KẾT CHUYẾN TỪ THIỆN  TRƯỜNG TIỂU HỌC TÀ HỘC - MAI SƠN - SƠN LA.


1/ BẢNG KÊ DANH SÁCH ỦNG HỘ TIỀN.

( Số tiền âm đợt trước : 3.800.000 đồng ). 
1.     Chị Nguyễn Thị Diễm Hằng từ TP. HỒ CHÍ MINH đã gửi 2 lần tổng số tiền 20.000.000 đồng (Hai  mười triệu đồng ).
2.     Anh Trần Văn Luận - Việt kiều đang sinh sống ở Mỹ 2 lần  : 03 triệu đồng.
·        Em Nguyễn Thị Xuân Trang  - Tp. HỒ CHÍ MINH - 05 triệu đồng.
3.     Em Lê Thành Trung- Đạo tràng DPLHVV - 02 triệu đồng.
4.     Em Đặng Đình Tuấn - 300.000 đồng.
5.     Em Cao Phạm Trung Kiên - TP.HCM - 10 Triệu.
6.     Anh Nguyễn Tiến Cương - Đông Anh - Hà Nội 2 lần - 11 triệu .
7.     Chị Tạ Ngọc Anh - 01 triệu đồng.
8.     Em Tuấn 200 nghìn đồng.
9.     Anh chị Cao Bái là cha mẹ em Kiên 01 triệu đồng. ( Ngày 19/12/2012 ).
10. Em Phạm Hoàng Hà - 22 Ngõ 124 Minh Khai - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội ủng hộ 500.000 đồng.
11. Em TRAN VIET HAI( dienbatn chưa có địa chỉ ), ủng hộ 500.000 đồng.
12. Trần Văn Chiến - PMU Thăng Long - 5.000.000 đồng.
13. Doãn Kim Lai ( Hoa Kỳ ) gửi 2 lần  - 4.200.000 đồng
14. Doãn Quốc Khoa - Đại học Kiến trúc Hà Nội - 2.000.000 đồng.
15. Gia đình em LÊ XUÂN VŨ - 8.000.000 đồng.
16. Gia đình TIẾN - YẾN - 2.000.000 đồng.
17. Gia đình Thế Anh - VIPBANK - 1.500.000 đồng.
18.   Em Nguyễn Minh Việt - 200.000 đồng.
19.   Vợ chồng em Lê Hồng Khánh - 500.000 đồng.
20.   Em Vinh Đạo tràng DPLHVV - 700.000 đồng.
21.   Các ACE trong Đạo tràng DPLHVV : Hùng - Hà - Tuấn - Thắng - Hương lớn - 2.500.000 đồng.
22.   Em Kiên - 22 Trường Chinh - Hà Nội - 500.000 đồng.
23.   Gia đình hai em Hải - Hương LILAMA - 1.000.000 đồng.
24.   Một lãnh đạo của TCT LILAMA - Minh Khai - Hà Nội ủng hộ các cháu học sinh 10.000.000 đồng.
25.   Vợ chồng Tô Anh Dũng - Nguyễn Thị Vĩnh Hà - 2.000.000 đồng.
26.   Vợ chồng Hoàng - Hương - Đạo tràng DPLHVV - 1.000.000 đồng.
27.   Em Tài - Đạo tràng DPLHVV - 200.000 đồng.
Tổng số =92.000.000 ( Chín mươi hai triệu đồng đồng . )

2/ DANH SÁCH ỦNG HỘ HIỆN VẬT .

1.     Chị Lan và các bạn tặng cho các cháu 500 đôi dép.
2.     Anh Nguyễn Thế Kỳ - Giám đốc TKD Việt Nam - 500 đôi tất ( Vớ ).
3.     Các em Sớm - Thanh Nga - Đông của Đạo tàng DPLHVV tặng 100 thùng mỳ ăn liền.
4.     Thanh Nga ủng hộ một chuyến xe tải chở hàng.

5.     Anh Vương, chị Nguyệt - Đại học Mỹ thuật Hà Nội ( 1.5t ), Chị Oanh ( 2t ) , chị Lộc (1 t ), Chị Lan các bạn ủng hộ tiền,tất cả dùng  mua 2500 quyển vở học sinh ( trị giá 6.100.000 đồng ).
6.     Các chị Đào Ngọc Hoa, Hoàng Kim Vân, Nguyễn Thương Huyền, Nguyễn thu Dương tại văn phòng LILAMA tặng một thùng bánh và một thùng kẹo.
7.     Cô Hoàng Lan Hương là y tá của LILAMA tặng một thùng bánh kẹo. 
8.   Em Nương 10 thùng mì ăn liền. 
9.     Em Bùi Thảo Nguyên 465 Hoàng Hoa Thám là người khuyết tật tặng 02 thùng mỳ.
10.   Anh Hải bạn Hoàng ủng hộ một TIVI TCL 21" mới 100 %.
11.   Chị Oanh đóng góp thêm 1.000 bút bi ( trị giá 1.600.000 đồng. )
12.   Các ACE trong Bộ Truyền thông thông tin - 02 bao quần áo cũ.
13.   Các ACE trong Bộ Tài Chính - 02 bao quần áo cũ.
14.   Các ACE trong Viện Khảo cổ - 05 bao quần áo cũ.
15.   Ngoài ra các bạn ở khắp nơi còn chuyển cho hàng chục bao tải quần áo cũ, die nbatn cũng cho chuyển lên Tà Hộc lần này tặng bố mẹ các em học sinh.
3/ QUÀ TẶNG ĐÃ TRAO CHO CÁC THÀY CÔ GIÁO, CÁC EM HỌC SINH, PHỤ HUYNH HỌC SINH TÀ HỘC.
1.                500 chiếc áo khoác cho học sinh - 40 triệu đồng.
2.               500 mũ len - 5 triệu đồng.
3.             500 áo len mặc trong - 6 triệu đồng.
4.        27 áo khoác nam tặng các thày - 5.940.000 đồng.
5.                 11 áo khoác nữ tặng các cô giáo - 1.980.000 đồng.
6.              11 khăn quàng cổ tặng các cô giáo - 1.100.000 đồng.
7.                  máy vi tính màn hình phẳng mới + USB 3G + 01 bộ loa = 8.000.000 đồng.
8.                  01 máy in lases 2.000.000 đồng.
9.                 Làm Băng rôn 500.000 đồng.
10.           Đưa tiền chi đổ dầu và sửa xe tải 4.500.000 đồng.
11.          500 túi ni lon - 1.000.000.
12.            2.500 cuốn vở học sinh - 6.100.000 đồng.
13.           Phát 05 phần học bổng = 10.000.000 đồng.
Cộng dồn : 92.120.000 đồng,
( Chín hai triệu một trăm hai mươi ngàn đồng. )
Thu : =92.000.000 ( Chín mươi hai triệu đồng đồng . )
Chi : 92.120.000 đồng,

Nhân dịp này , dienbatn thay mặt các ACE trong Đoàn từ thiện, các thày cô giáo , các em học sinh và cha mẹ học sinh trường Tiểu học Tà Hộc - Mai Sơn - Sơn La cảm ơn tất cả những tấm lòng Bồ tát của các bạn hữu gần xa đã hết lòng ủng hộ , động viên chúng tôi đem một chút hơi ấm tình thương yêu lên Tây Bắc cho các cháu học sinh. Xin kính chúc các bạn hữu gần xa một năm mới luôn được HẠNH PHÚC - AN KHANG - THỊNH VƯỢNG. 
Thân ái. dienbatn.